Nhảy đến nội dung

QUY TRÌNH SẢN XUẤT CÂY DONG RIỀNG (QTSX-07)

1. Tên quy trình: Quy trình sản xuất cây dong riềng.
2. Thông tin chung
2.1. Xuất xứ của quy trình
Quy trình được xây dựng dựa trên các kết quả thực hiện đề tài, nhiệm vụ khoa học công nghệ, chương trình, dự án liên quan; tổng kết thực tiễn sản xuất cây dong riềng trên địa bàn tỉnh; tham khảo các quy trình do các viện, trường, các địa phương... đã ban hành.
2.2. Phạm vi, đối tượng áp dụng
Quy trình sản xuất cây dong riềng được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến sản xuất dong riềng trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh Sơn La.
3. Nội dung quy trình
3.1. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh
3.1.1. Yêu cầu về nhiệt độ
Cây dong riềng chịu được nhiệt độ cao 37-380C, gió khô và nóng, nhưng cũng là cây chịu rét tốt vì vậy thích hợp trồng cả ở các vùng núi cao.
3.1.2. Yêu cầu về mưa và độ ẩm
Cây dong riềng chịu hạn tốt nên trồng nơi đất có độ dốc 150, không chịu được úng nên không trồng nơi đất trũng bị ngập nước. Độ ẩm vừa phải trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển của cây sẽ giúp cây phát triển tốt và cho năng suất cao. Lượng nước tối ưu từ 900-1.200mm cho chu kỳ sinh trưởng của cây.
3.1.3. Yêu cầu về ánh sáng
Dong riềng là cây trồng không cần nhiều ánh sáng, có thể sinh trưởng bình thường dưới bóng các cây khác, rất thuận lợi cho việc trồng xen với các loại cây khác trong hệ thống canh tác đất dốc bền vững
3.1.4. Yêu cầu về đất đai
Cây dong riềng là cây trồng có thể thích ứng trên nhiều loại đất khác nhau, trồng trên đất cát pha, nhiều mùn, đủ ẩm dong riềng sẽ cho năng suất cao. Dong riềng là cây chịu úng kém, do vậy đất trồng phải dễ thoát nước. Độ pH thích hợp từ 5-7, pH dưới 4 bộ rễ kém phát triển, nhỏ, đen, xù xì, mọc ngược lên mặt đất.
3.2. Kỹ thuật trồng, chăm sóc
3.2.1. Tiêu chuẩn giống
Yêu cầu: Giống cây trồng đưa vào sản xuất phải phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, từng loại cây và tuân thủ theo quy định về quản lý giống cây trồng theo đúng quy định.
Củ giống: Chọn củ bánh tẻ, có mầm mới nhú, to vừa phải và đều củ, không xây xát, không dập và thối, không sâu bệnh để làm giống. Lượng giống từ 1.800-2.300kg/ha tùy theo kích cỡ củ giống.
Củ dong riềng không có thời gian ngủ nghỉ, do vậy sau khi thu hoạch cần mang trồng ngay và không cần phải xử lý củ giống bằng nhiệt độ hay hóa chất như một số cây trồng khác. Tuy nhiên, nên dùng thêm vôi bột hoặc tro bếp, để chấm vị trí tách mầm trước khi trồng. Điều này giúp củ giống nhanh liền sẹo, tránh bị nhiễm bệnh hoặc thối củ khi gặp thời tiết bất thuận.
3.2.2. Làm đất
Cây dong riềng là loại cây có thể trồng và phát triển trên nhiều loại đất, tuy nhiên cây phát triển mạnh, cho năng suất cao ở vùng đất tơi xốp, nhiều mùn, ẩm độ thích hợp.
Chọn đất không bị ô nhiễm, đất không bị nhiễm sâu bệnh hại (đối với đất đã trồng dong riềng ở vụ trước bị nhiễm sâu bệnh hại cần xử lý đất trước khi trồng (xử lý nấm đất, làm sạch cỏ dại, phơi ải, luân canh cây trồng...).
Dong riềng phát triển củ theo chiều ngang, rễ cây ăn sâu do vậy làm đất cần phải chú ý cày sâu 20-25cm, làm đất kỹ, nhặt sạch cỏ dại.
Đối với vùng đất dốc nên tiến hành trồng theo đường đồng mức, bổ hốc rộng khoảng 20cm x 20cm; sâu khoảng 20cm x 25 cm rồi trồng, đất hớt ra để phía trên dốc, gặp mưa màu dồn xuống hố, bổ sung thêm dinh dưỡng cho cây.
Đối với trồng trên đất ruộng, vườn bãi đọng nước thì cần lên luống rộng 110-130cm.
3.2.3. Mật độ và khoảng cách
- Mật độ: 2.300kg/ha (tương ứng khoảng 55.000 cây/ha)
- Khoảng cách
+ Trên đất dốc bổ hốc theo đường đồng mức với khoảng cách khóm cách khóm 40-45 cm; hàng cách hàng 45 cm.
+ Trên đất bằng phẳng, đất ruộng làm luống 1,1-1,3m, cây cách cây 25-30cm.
3.2.4. Thời vụ và kỹ thuật trồng
- Cây dong riềng là cây dài ngày, chịu hạn tốt, chịu rét khá. Do vậy có thể trồng quanh năm nếu có nước tưới trừ những tháng quá nóng hoặc quá rét. Tốt nhất nên tiến hành trồng dong riềng từ tháng 4 đến tháng 6 dương lịch khi mùa mưa bắt đầu.
- Sau khi xẻ rãnh hoặc bổ hốc xong, bón phân chuồng, phân lân, phân đạm phủ một lớp đất mỏng, đặt củ vào, củ giống đặt sâu 15cm, mầm hướng lên và phủ lớp đất mỏng. Sau trồng nếu có rơm rạ phủ mặt luống để giữ ẩm là tốt nhất.
3.3.5. Chăm sóc
a) Bón phân
- Lượng phân tính cho 1ha: 3 tấn phân hữu cơ vi sinh (hoặc phân hữu cơ truyền thống) + 230kg N+108kg P2O5+216kg K2O (hoặc sử dụng phân hỗn hợp với tỷ lệ quy đổi tương ứng).
- Cách bón:
+ Bón lót: Toàn bộ phân hữu cơ và lân +1/3 đạm
+ Bón thúc lần 1 (Sau trồng từ 3-4 tháng): Bón 1/3 đạm+1/2 kali
+ Bón thúc lần 2 (Sau lần 1 từ 2-3 tháng): Bón 1/3 lượng đạm+1/2 kali
Chú ý: Không bón phân chuồng tươi vì có nhiều nấm bệnh gây hại cho cây.
Khi bón phân phải bón vào giữa 2 khóm hoặc bón xung quanh và cách xa gốc 10-15cm. Không bón phân trực tiếp vào gốc cây, làm cây chết.
b) Xới xáo, làm cỏ, vun gốc
- Chăm sóc lần 1: Sau trồng 30 ngày xới nhẹ, làm sạch cỏ, bón phân thúc đợt 1 rồi vun gốc. Bón phân vào mép luống hoặc giữa 2 khóm, không bón phân trực tiếp vào gốc cây làm cây chết.
- Chăm sóc lần 2: Sau chăm sóc lần 1 từ 2-3 tháng tiến hành làm cỏ, xới xáo, vun gốc chống đổ khi mưa bão, kết hợp bón thúc lần 2.
Mỗi lần vun xới, nếu có mùn rác mục hoặc trấu,...đem phủ vào gốc làm đất tơi xốp, cây cho củ, củ càng to và năng suất càng cao.
c) Tưới nước: Do địa bàn tỉnh Sơn La cây dong riềng được trồng trong hệ thống canh tác sử dụng nước trời nên cần bố trí thời vụ trồng thường bắt đầu khi vào xuân, có mưa phùn để mầm mọc nhanh.
3.5.6. Quản lý sinh vật gây hại
a) Quản lý sinh vật hại tổng hợp
- Biện pháp canh tác: Vệ sinh đồng ruộng thường xuyên nhằm tiêu diệt mầm mống và nơi trú ẩn của sâu bệnh hại cây trồng; sử dụng phân bón hợp lý và chăm sóc các cây trồng cẩn thận để tăng khả năng chống sâu bệnh; gieo giống tránh những thời điểm sâu bệnh sinh trưởng mạnh; luân canh cây trồng.
- Biện pháp sinh học: Bảo vệ thiên địch các loại sâu bệnh hại; sử dụng bẫy bả sinh học như: bẫy dính màu vàng, bẫy pheromone
- Biện pháp thủ công: Bắt sâu bằng tay, cắt bỏ cành và lá bị bệnh đem tiêu hủy, sử dụng bẫy bả.
- Biện pháp hóa học: Chỉ sử dụng thuốc BVTV được quy định trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam. Khi sử dụng thuốc BVTV phòng trừ sinh vật gây hại phải sử dụng theo nguyên tắc 4 đúng và theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn.
b) Một số sinh vật hại chính
Một số loại sâu bệnh hại chính trên cây dong riềng như: sâu ăn lá (sâu khoang, sâu xám…) bệnh cháy lá, ngoài ra còn xuất hiện rệp, sâu róm, bọ nẹt… nhưng gây hại không đáng kể. Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để phát hiện sớm sâu bệnh hại và khuyến khích áp dụng các biện pháp quản lý cây trồng tổng hợp.
- Sâu đục thân: Thường xuất hiện vào đầu mùa mưa, đục vào bên trong ăn phần non, nếu phát triển mạnh sẽ làm giảm năng suất.
- Sâu ăn lá: Gây hại trên nhiều loại cây trồng trong đó có dong riềng hại ở giai đoạn đầu sinh trưởng của cây hại nặng nhất khi cây 5-10 lá (khoảng 60- 90 ngày sau trồng).
- Bệnh khô lá: thường xuất hiện ở giai đoạn 150-180 ngày sau trồng; triệu chứng: Phiến lá đầu tiên xuất hiện những đốm màu xanh tái, sau đó lớn dần đường kính 3-5mm, giữa đốm có màu nâu xám, xung quanh viền nâu đậm, nhiều vết bệnh liên kết với nhau tạo thành mảng cháy lớn trên lá. Vết bệnh có thể xuất hiện ở đỉnh hoặc mép lá, tạo thành mảng cháy lan rộng vào trong phiến lá. Bệnh nặng có thể làm cho phần lớn lá cháy xơ xác, củ nhỏ và ít củ.
- Bệnh thối củ: Đầu tiên vết bệnh xuất hiện ở bẹ lá ở gốc cây gần mặt đất, là những đốm màu nâu xám, rộng khoảng 3-5cm có hình dạng nhất định, sau đó lan rộng ra, xung quanh có viền nâu đen, lá bị bệnh có xu hướng lan xuống phía gốc làm thối một phần củ, vết thối xơ hơi xốp, bệnh nặng có thể làm chết cây và thối củ hoàn toàn.
b) Biện pháp phòng trừ
Áp dụng biện pháp quản lý sinh vật hại tổng hợp, quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp; phòng trừ sinh vật hại theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn.
3. Thu hoạch
Khi thấy cây ổn định chiều cao, thân lá chuyển từ màu xanh sang vàng, rạc dần, nhiều lá gần gốc đã khô là cây đã già có thể thu hoạch được (nếu thu hoạch sớm ảnh hưởng đến năng suất và hàm lượng tinh bột). Củ dong riềng được chế biến tinh bột, ăn tươi hoặc làm thức ăn cho gia súc (tùy từng giống dong riềng).
Thu hoạch để ăn củ tươi có thể sau trồng 8-9 tháng, để chế biến tinh bột thì sau trồng 10-11 tháng là tốt nhất./.